Phương pháp giúp kích thích buồng trứng điều trị vô sinh nữ

Trong quá trình điều trị, bệnh nhân rất cần phải có sự theo dõi kỹ càng để tránh các biến chứng không mong muốn.


Kích thích buồng trứng là gì?

– Kích trứng là phương pháp sử dụng các loại thuốc nội tiết uống hoặc tiêm nhằm tạo các nang noãn trưởng thành, tăng khả năng phóng noãn (rụng trứng) để thụ thai hoặc sử dụng cho các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

– Đối tượng áp dụng: Trường hợp vô sinh do rối loạn phóng noãn, không phóng noãn và dùng trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Kích trứng và kích thích phóng noãn trong điều trị vô sinh do rối loạn phóng noãn

– Kích thích buồng trứng ở phương pháp này là sử dụng thuốc dạng uống hoặc tiêm nhằm giúp trứng phát triển đến trưởng thành và chín, rụng. Sau khi nang trứng trưởng thành, đủ kích thước, bệnh nhân sẽ được tiêm hCG để giúp trứng rụng.

– Phương pháp này cần thiết cho những trường hợp vô sinh do không phóng noãn, áp dụng cho những trường hợp vợ chồng lấy nhau 1- 2 năm chưa có thai hoặc ở bệnh nhân đa nang buồng trứng.

Kích trứng trong hỗ trợ sinh sản IUI (bơm tinh trùng vào qua cổ tử cung)

Kích thích buồng trứng để bơm tinh trùng vào buồng tử cung thường được áp dụng cho các bệnh nhân bị rối loạn phóng noãn. Ở các bệnh nhân này, cần ít nhất một nang trưởng thành có phóng noãn để đạt được hiệu quả điều trị. Do đó, chọn lựa phác đồ kích thích buồng trứng trong IUI cần phù hợp sao cho số nang có thể giải phóng noãn không quá nhiều nhằm hạn chế các biến chứng.

Phác đồ ngắn/cực ngắn

– Phác đồ ngắn hay cực ngắn thường được sử dụng cho những bệnh nhân lớn tuổi, đáp ứng kém với kích thích buồng trứng.

– Sử dụng các thuốc uống bắt đầu từ ngày thứ 2 của chu kỳ kinh. Có thể sử dụng thuốc tiêm song song hoặc chậm hơn 1- 2 ngày
Siêu âm theo dõi nang noãn bắt đầu từ ngày thứ 6 (tính từ ngày bắt đầu ra kinh) của chu kỳ kinh.

– Các lần siêu âm sau và liều thuốc tiếp tục được điều chỉnh tùy theo kích thước và số lượng nang noãn phát triển. Tiêm hCG để kích thích phóng noãn khi có ít nhất 1 nang đạt kích thước 18mm trên siêu âm. Bơm tinh trùng 36 giờ sau khi tiêm hCG hay 24 và 48 giờ nếu bơm tinh trùng 2 lần trong một chu kỳ.

Phác đồ tăng liều dần/giảm liều dần

Phác đồ này thường được sử dụng để kích thích buồng trứng ở những bệnh nhân PCOS (nhóm II theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới).

Phác đồ tăng liều dần (step-up protocol)

– Sử dụng thuốc kích thích buồng trứng liên tục trong 14 ngày theo chỉ định của bác sĩ. Siêu âm và xét nghiệm nội tiết theo dõi nang noãn được tiến hành lần đầu sau 14 ngày. Nếu chưa có đáp ứng, nang nhỏ dưới 10 mm trên siêu âm, tăng liều lên. Nếu có đáp ứng, nang lớn hơn 10mm, duy trì liều cũ cho đến khi nang noãn đạt đến tiêu chuẩn cho hCG như đã trình bày ở trên.

– Chu kỳ sẽ bị ngưng điều trị khi không có đáp ứng buồng trứng sau 35 ngày kích thích hay không có nang vượt trội khi đã dùng đến liều tối đa trong một tuần.

– Phác đồ này sẽ bị ảnh hưởng bởi tuổi tác và tình trạng béo phì của người phụ nữ.

Phác đồ giảm liều dần (step-down protocol)

– Sử dụng thuốc kích trứng ngay sau khi người bệnh có kinh tự nhiên hay sau sử dụng progesterone. Duy trì liều thuốc cho đến khi có một nang vượt trội trên 10mm trên siêu âm. Sau đó, giảm dần liều thuốc và nang noãn đạt đến tiêu chuẩn thì tiêm hCG.

Phác đồ tăng liều dần an toàn và hiệu quả hơn phác đồ giảm liều dần nhưng chi phí cao hơn do thời gian điều trị kéo dài.

Kích trứng trong hỗ trợ sinh sản IVF (thụ tinh trong ống nghiệm)

Để một chu kỳ IVF có hiệu quả, số lượng nang noãn trung bình cần đạt được sau kích thích buồng trứng là 8 – 10 nang noãn trưởng thành. Có 2 phác đồ kích thích buồng trứng được sử dụng trong IVF.

Phác đồ dài với sự sử dụng thuốc kết hợp

– Sử dụng các thuốc tiêm kích thích buồng trứng từ ngày 14- 21 của chu kỳ kinh nguyệt, có thể sử dụng từ ngày thứ 21 của chu kỳ kinh trước hoặc áp dụng từ ngày thứ nhất của chu kỳ kinh.

– Sử dụng thuốc và liều lượng tùy theo độ tuổi bệnh nhân và sự đáp ứng của buồng trứng với thuốc.

– Theo dõi siêu âm nang noãn được bắt đầu vào ngày thứ 6 sau khi sử dụng kết hợp các thuốc kích thích buồng trứng. Sau đó, siêu âm được tiến hành mỗi ngày hay mỗi 2-3 ngày tùy theo kích thước của nang noãn. Thông thường, thời gian kích thích buồng trứng của giai đoạn II kéo dài 10-12 ngày.

– Sau khi bệnh nhân được tiêm kích thích buồng trứng, khi theo dõi trên siêu âm mà có ít nhất 2 nang noãn đạt kích thước 17 mm trở lên thì bệnh nhân sẽ được tiêm hCG để kích thích phóng noãn. Chọc hút trứng được thực hiện khoảng 34 – 36 giờ sau tiêm hCG.

Phác đồ ngắn

– Thời điểm ổn định của chu kỳ kích thích buồng trứng hay theo sự đáp ứng của từng bệnh nhân. Kích thích buồng trứng áp dụng từ ngày 2-3 của chu kỳ kinh nguyệt, đến ngày 7 của chu kỳ, sau đó có thể được tiêm thuốc dưới da. Theo dõi tiếp tục sự phát triển nang noãn sau khi được kích thích buồng trứng theo chỉ định của bác sĩ.

– Tiêm thuốc kích trứng bắt đầu từ ngày 6 của chu kỳ và theo dõi sự phát triển nang noãn và sử dụng hCG khi các nang noãn đạt tiêu chuẩn, sau đó bác sĩ sẽ tiến hành chọc hút trứng

Các biến chứng có thể xảy ra

Các biến chứng có thể xảy ra khi kích thích buồng trứng điều trị vô sinh

– Chảy máu âm đạo, đau trong âm đạo và có thể gây nhiễm trùng nếu dụng cụ không được khử trùng cẩn thận.

– có thể gây ra hội chứng quá kích buồng trứng, hội chứng buồng trứng đa nang, hoặc làm teo buồng trứng, suy buồng trứng thậm chí có thể gây nguy cơ ung thư buồng trứng. Bên cạnh đó nó còn làm tăng nguy cơ đa thai và có thể gây vô sinh do hết nang nguyên thủy.

Dù đã có những bước tiến mới trong điều trị hiếm muộn, liệu pháp kích thích buồng trứng vẫn là một hành trình đòi hỏi không ít sự kiên nhẫn, quyết tâm, và cả chi phí. Không chỉ vài viên thuốc, vài lần tiêm là phụ nữ hiếm muộn sẽ thoả nguyện mong ước có con. Bệnh nhân nên đến các cơ sở điều trị hiếm muộn, vô sinh để được khám và tư vấn kỹ trước khi quyết định áp dụng phương pháp kích thích buồng trứng. Người phụ nữ cần chuẩn bị tốt về sức khoẻ và ổn định tâm lý, phải tìm hiểu thông tin, chi phí điều trị để chuẩn bị tài chính và sắp xếp thời gian phù hợp với việc điều trị, bởi phương pháp này cần một quá trình dài và tốn kém. Trong quá trình điều trị, bệnh nhân rất cần phải có sự theo dõi kỹ càng để tránh các biến chứng không mong muốn.

Related posts:

Nội Dung Khác

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *